Phân tích bản nhạc:
- Bản nhạc này được xem là một trong những bản prélude khó của Chopin. Đáng ra, nó đã có thể được xem như một bản étude (bài tập cho ngón) vì mức độ khó của nó. Thứ nhất, tay trái nhảy nhiều và tay đánh một quãng tám hoà âm. Cả hai tay đều phải chạy ở tốc độ Presto (rất nhanh), sử dụng nốt láy và chú ý đến đặc điểm của câu nhạc - đặc biệt khó đối với phần đầu. Những nốt lặp lại đối với phím đen khi đánh nốt đôi đòi hỏi một trình độ nhất định về mặt kĩ thuật.
- Tất nhiên, một bản prélude không thể được xem là một bản étude; nó hoàn toàn khác với étude, dù những bản étude cũng đòi hỏi không kém những kĩ thuật điêu luyện ngoài khả năng âm nhạc ra. Những bản prélude đơn thuần chỉ để thể hiện những cảm xúc, và kĩ thuật ở đây chỉ là một công cụ để thể hiện nó thôi. Những nốt thường đi theo một nhóm gồm hai nốt, và những đoạn láy được diễn một cách gãy khúc, tạo cho người nghe một cảm nhận về sự tan vỡ. Đây đúng thật là một cuộc đấu tranh; thậm chí về mặt kĩ thuật, tay trái và tay phải đều đối chọi nhau. Tuy nhiên, tay phải có phần nổi trội hơn, đến gần kết thúc thì tay trái diễn nhẹ hơn nữa, và rồi thì cả hai tay ngừng trong một khoảnh khắc. Có vẻ như "cuộc chiến" đã kết thúc một cách lặng lẽ, nhưng rồi 2 nốt kết bài vang lên mạnh mẽ khiến người nghe rất bất ngờ.
- Biệt danh mà Hans von Bülow đặt cho bản nhạc, "The duel" (cuộc đấu tay đôi) thể hiện được phần nào "cuộc chiến" trong bản nhạc này. Còn biệt danh từ Alfred Cortot thì hơi khác một chút: "Chevauchée dans la nuit" (Cưỡi đi trong đêm). Có lẽ là cưỡi ngựa, vì câu nhạc gãy khúc kết hợp với tay trái nghe như tiếng ngựa phi. Không khí "trong đêm" ở đây có thể là bắt nguồn từ giai điệu tối tăm của bản nhạc.
Nào, mời các bạn cùng thưởng thức bản nhạc nhé!
http://mp3.zing.vn/bai-hat/No-12-In-G-Sharp-Minor-Dang-Thai-Son/ZW60ZE8B.html
(Nguồn: www.ourchopin.com/analysis/prelude0916.html )
- Bản nhạc này được xem là một trong những bản prélude khó của Chopin. Đáng ra, nó đã có thể được xem như một bản étude (bài tập cho ngón) vì mức độ khó của nó. Thứ nhất, tay trái nhảy nhiều và tay đánh một quãng tám hoà âm. Cả hai tay đều phải chạy ở tốc độ Presto (rất nhanh), sử dụng nốt láy và chú ý đến đặc điểm của câu nhạc - đặc biệt khó đối với phần đầu. Những nốt lặp lại đối với phím đen khi đánh nốt đôi đòi hỏi một trình độ nhất định về mặt kĩ thuật.
- Tất nhiên, một bản prélude không thể được xem là một bản étude; nó hoàn toàn khác với étude, dù những bản étude cũng đòi hỏi không kém những kĩ thuật điêu luyện ngoài khả năng âm nhạc ra. Những bản prélude đơn thuần chỉ để thể hiện những cảm xúc, và kĩ thuật ở đây chỉ là một công cụ để thể hiện nó thôi. Những nốt thường đi theo một nhóm gồm hai nốt, và những đoạn láy được diễn một cách gãy khúc, tạo cho người nghe một cảm nhận về sự tan vỡ. Đây đúng thật là một cuộc đấu tranh; thậm chí về mặt kĩ thuật, tay trái và tay phải đều đối chọi nhau. Tuy nhiên, tay phải có phần nổi trội hơn, đến gần kết thúc thì tay trái diễn nhẹ hơn nữa, và rồi thì cả hai tay ngừng trong một khoảnh khắc. Có vẻ như "cuộc chiến" đã kết thúc một cách lặng lẽ, nhưng rồi 2 nốt kết bài vang lên mạnh mẽ khiến người nghe rất bất ngờ.
- Biệt danh mà Hans von Bülow đặt cho bản nhạc, "The duel" (cuộc đấu tay đôi) thể hiện được phần nào "cuộc chiến" trong bản nhạc này. Còn biệt danh từ Alfred Cortot thì hơi khác một chút: "Chevauchée dans la nuit" (Cưỡi đi trong đêm). Có lẽ là cưỡi ngựa, vì câu nhạc gãy khúc kết hợp với tay trái nghe như tiếng ngựa phi. Không khí "trong đêm" ở đây có thể là bắt nguồn từ giai điệu tối tăm của bản nhạc.
Nào, mời các bạn cùng thưởng thức bản nhạc nhé!
http://mp3.zing.vn/bai-hat/No-12-In-G-Sharp-Minor-Dang-Thai-Son/ZW60ZE8B.html
(Nguồn: www.ourchopin.com/analysis/prelude0916.html )