Toán học - những mâu thuẫn, phi mâu thuẫn không thể quyết định I
Qua hàng trăm năm, các nhà toán học đã xây dựng một hệ thống lý thuyết từ những cái đã biết đến những cái chưa biết bằng chứng minh logic; tuy nhiên, đến cuối thế kỉ XIX, thay vì tiếp tục xây dựng hệ thống toán học, các nhà logic toán học đã bắt đầu quay lại để kiểm tra nền tảng của toán học và xây dựng chặt chẽ lại tất cả từ những nguyên lí đầu tiên, nhằm tái đảm bảo cho họ là những nguyên lí đầu tiên ấy là đáng tin cậy.
Vì lẽ đó, những nhà nghiên cứu logic thường suy luận chặt chẽ hơn rất nhiều so với những nhà toán học thông thường; họ đặt ra nghi vấn đối với những ý tưởng mà các nhà toán học khác coi là lẽ đương nhiên từ hàng trăm thế kỉ nay. Ví dụ như, họ đã chứng minh 1+1=2, hoặc định luật "tam phân" phát biểu mọi số thực đều âm, hoặc dương, hoặc bằng 0. Đối với nhà logic toán học, chừng nào điều này chưa được chứng minh, thì toán học vẫn có nguy cơ sụp đổ. May thay là nó đã được chứng minh là đúng vào cuối thế kỉ XIX.
Một đội ngũ các nhà logic học đã tham gia quá trình xây dựng lại cơ thể phức tạp của toán học mà chỉ sử dụng một số tiên để tối thiểu. Chương trình trên được lãnh đạo bởi David Hilbert - một trong những gương mặt sáng giá nhất của thời đại. Ông tin mọi thứ trong toán học có thể chứng minh được và cần phải được chứng minh dựa trên hệ tiên đề cơ sở, và vì thế, cần chứng minh dứt khoát 2 cơ sở quan trọng nhất của hệ thống toán học:
- Về mặt lý thuyết, toán học cần trả lời mọi câu hỏi riêng biệt; đây cũng là bản chất của tính đầy đủ mà trong quá khứ đã đòi hỏi phải phát minh ra những số mới, chẳng hạn số âm và số ảo (căn bậc hai của số âm).
- Toán học phải thoát khỏi sự mâu thuẫn. Có nghĩa là, khi chứng minh một mệnh đề là đúng (hay sai) bằng cách này thì không thể chứng minh mệnh đề mang kết quả ngược lại bằng cách khác.
Ngày 8/8/1900, Hilbert đã đọc bản báo cáo lịch sử tại Hội nghị toán học quốc tế ở Paris. Ông đã nêu lên 23 bài toán cấp thiết nhất trong toán học mà chưa được giải. Những bài toán này có ý định tập trung sự chú ý của thế giới toán học và đưa ra một chương trình nghiên cứu. Hilbert muốn khích lệ cộng đồng toán học giúp ông thực hiện quan điểm về một hệ thống toán học thoát khỏi sự ngờ vực và mâu thuẫn - một hoài bão mà ông đã cho khắc trên mộ chí của mình:
Wir müssen wissen - chúng ta phải biết
Wir werden wissen - chúng ta sẽ biết
Một trong những đối thủ của Hilbert, Gotlob Frege, lại là một trong những ngọn đèn dẫn đầu của chương trình Hilbert. Ông đã tận tuỵ rút ra hàng trăm định lý phức tạp từ những tiên đề đơn giản; những thành công ấy đã khiến ông tin rằng ông đã đi đúng đường để hoàn thành một phần chương trình Hilbert. Một trong những công trình đột phá của ông là định nghĩa các con số. Ví dụ, lấy số 3. Trước hết, ta cần định nghĩa "cái 3". Đó là một định nghĩa trừu tượng của tập hợp các đối tượng chứa 3 phần tử. Có thể là 3 con chuột, hay 3 cạnh của một tam giác. Frege nhấn mạnh có rất nhiều tập hợp phô bày "cái 3" và ông đã sử dụng ý tưởng về các tập hợp để định nghĩa chính số "3". Do đó, "một tập hợp có 3 phần tử khi và chỉ khi nó nằm trong tập hợp "3" ". Có vẻ điều này quá phức tạp đối với một khái niệm mà ta dùng hàng ngày, nhưng nó thực sự chặt chẽ và không thể chối cãi, và hoàn toàn cần thiết đối với chương trình không thoả hiệp của Hilbert.
Toán học - những mâu thuẫn, phi mâu thuẫn không thể quyết định II
Năm 1290, Frege chuẩn bị công bố công trình Những nguyên lý cơ bản của Số học - một công trình 2 tập đồ sộ mang nội dung thiết lập một tiêu chuẩn mới của tính xác định trong toán học. Cùng lúc đó, nhà logic học người Anh Bertrand Russel, người cũng đóng góp vào chương trình Hilbert, đã công bố một phát hiện mang tính chất đột phá: "Toán học có thể mâu thuẫn một cách cố hữu", dù đã theo đuổi nghi thức chặt chẽ của Hilbert. Ông nhớ lại phản ứng của mình đối với phát hiện kinh khủng ấy như sau:
"Đầu tiên, tôi nghĩ rằng mình có thể vượt qua mâu thuẫn đó một cách dễ dàng, và có lẽ đã có một sai lầm tầm thường nào đó trong lập luận. Nhưng dần dần, tình hình càng trở nên rõ ràng không phải như vậy... Suốt nửa sau của năm 1901, tôi tưởng việc giải quyết sẽ dễ dàng, nhưng đến cuối giai đoạn đó tôi đi đến kết luận rằng đó là một công việc lớn... Đêm nào tôi cũng có thói quen đi lang thang, từ 11 giờ đến 1 giờ, trong thời gian đó tôi đã nhận ra 3 tiếng kêu khác nhau của con cú (hầu hết mọi người chỉ biết một). Tôi đã hết sức cố gắng giải quyết mâu thuẫn. Sáng sáng tôi lại ngồi trước một tờ giấy trắng. Rồi suốt cả ngày, trừ một khoảng thời gian bữa trưa ngắn ngủi, tôi cứ ngồi nhìn chòng chọc vào tờ giấy trắng đó. Và thường thì khi đêm đến nó vẫn còn trắng tinh như vậy".
Không thể thoát khỏi mâu thuẫn. Russel bèn viết thư cho Frege, người đang có bản thảo nằm tại nhà in; tuy nhiên Frege vẫn công bố công trình ấy bất chấp cú knock-out ấy. "Một nhà khoa học khó có thể có một sự thất vọng nào lớn hơn khi thấy nền tảng lý thuyết của mình bị sụp đổ đúng vào lúc công trình vừa mới kết thúc. Tôi đã bị đặt vào trong tình thế này bởi nhận được lá thư từ ngài Bertrand Russel khi công trình của tôi sắp được công bố". Điều trớ trêu là những mâu thuẫn Russel phát hiện lại xuất phát từ chính những tập hợp của Frege. "Dường như đối với tôi, một tập hợp đôi khi là, và đôi khi không là, phần tử của chính nó. Chẳng hạn, tập hợp những cái thìa uống trà không là một cái thìa uống trà, nhưng tập hợp những đồ vật không là thìa uống trà lại là một trong những thứ không là thìa uống trà." Nghịch lý Russel có thể được giải thích bằng việc một vị thủ thư kỹ lưỡng:
"Vị thủ thư kỹ lưỡng ấy phát hiện một tập hợp các danh mục. Một số danh mục liệt kê cả bản thân nó, trong khi các danh mục khác lại không như vậy. Nhằm hệ thống lại, ông ta đã làm thêm 2 danh mục nữa: một danh mục tất cả các danh mục tự liệt kê được bản thân nó (1) và một danh mục tất cả những danh mục không thể tự liệt kê được bản thân nó (2). Vấn đề là, liệu danh mục (2) có được liệt kê trong chính nó không? Nếu có, thì theo định nghĩa nó sẽ không được liệt kê; tuy nhiên, nếu nó không được liệt kê, thì theo định nghĩa, nó sẽ được liệt kê. Và người thủ thư rơi vào một tình thế không thể quyết định được".
Điều đáng chú ý là, những danh mục giống với những tập hợp mà Frege đã sử dụng trong định nghĩa cơ bản của những con số. Sự mâu thuẫn này đã gây phiền nhiễu cho toán học - thế giới không có sự thiếu nhất quán và mâu thuẫn. Ví dụ như một trong những công cụ chứng minh mạnh mẽ - phản chứng, dựa trên cơ sở lập luận toán học không có nghịch lý. Có nghĩa là, khi một giả thuyết dẫn tới vô lý thì nó sai; tuy nhiên theo Russel, thậm chí các tiên đề cũng có thể dẫn tới những kết quả vô lý. Suy ra, có thể chứng minh một tiên đề là sai, trong khi bản thân các tiên đề lại là nền tảng của toán học và đã được thừa nhận là đúng. Công trình nghiên cứu của Russel đã lay chuyển nền tảng toán học và đẩy sự nghiên cứu logic toán học vào một trạng thái hỗn loạn. Như thế, cùng với Hilbert và các nhà logic khác, Russel cũng tìm cách cố gắng chữa chạy tình thế và hồi phục toán học.
Sự mâu thuẫn trên, suy cho cùng, là hệ quả của quá trình làm việc với các tiên đề của toán học mà vốn được coi là hiển nhiên, xác định phần còn lại của toán học. Có một hướng nghiên cứu là sáng tạo ra một tiên đề ngăn cấm bất kỳ một tập hợp nào là phần tử của chúng. Điều này sẽ chặn được nghịch lý Russel, bằng cách biến câu hỏi về danh mục thành một câu hỏi thừa.
Russel đã dành một thập kỷ tiếp theo để xem xét các tiên đề toán học, phần chủ yếu nhất của môn học này. Năm 1910, cùng sự cộng tác của Alfred North Whitehead, ông đã cho công tập I của một bộ sách 3 tập Những nguyên lý của toán học nhằm xử lý một phần vấn đề do nghịch lý của chính ông tạo ra; đó như một cuốn cẩm nang nhằm thiết lập một toà nhà toán học không có sai lầm. Vào thời điểm Hilbert nghỉ hưu năm 1930, ông tự tin là toán học đang đi đúng trên con đường phục hồi. Mơ ước của Hilbert về một hệ logic phi mâu thuẫn, đủ mạnh để trả lời mọi câu hỏi, rõ ràng đang trở thành hiện thực.
(Còn tiếp)